Lữ Giang
Ngày đầu năm đi ra phố Bolsa uống cà phê, gặp
người nào nhìn tôi cũng cười cười... Hỏi
đầu năm có chuyện gì vui vậy, họ lại cười và nói: “ Cua Mỹ và cua Việt
”!
Thì ra rất nhiều người đã thích thú khi đọc bài “ Chỉ
là chuyện giấc mơ” của tôi, trong đó tôi có kể lại chuyện “ Người Việt
'xấu xa'” của Dan Huynh nói về bản chất người Việt. Câu chuyện do Dan Huynh kể đại khái như sau: Có hai
người đi bắt cua, họ bỏ cua Việt và cua Mỹ vào hai thùng khác nhau. Một người bảo người kia chỉ cần đậy nắp thùng cua Mỹ,
không cần đậy nắp thùng của Việt. Được hỏi
tại sao, người này giải thích: “Cua Mỹ khác hẳn cua
Việt vì nó biết cách nằm chồng lên nhau, cho các con khác bò lên người để ra khỏi
miệng thùng, còn cua Việt Nam thì con nào vừa định ngoi lên đã có con bên cạnh
níu chân kéo xuống nên không bao giờ lên đến miệng thùng, khỏi cần đậy nắp!”
Người Việt: Chúng ta có thể không sống cùng nhau, nhưng chắc chắn cùng nhau chết. |
Đa số đã lấy làm thích thú vì cho rằng chúng tôi đã
dám nói lên những bản chất khá phổ biến của cộng đồng người người Việt hải ngoại,
nhưng một số nhỏ bị “chạm nọc” đã vẫy vùng hung hãn bằng cách “chọi đá đường rầy
xe lửa”!
Một câu hỏi được đặt ra: Cùng những cơ hội giống nhau,
tại sao Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngóc đầu lên được, còn Thái
Lan, Philippines, Việt Nam, Mã Lai, Miến Điện… không ngóc đầu lên nổi? Phải chăng vì “bản chất dân tộc”?
Nhân ngày đầu năm, chúng ta thử xem bản chất thực sự của
người Việt như thế nào theo những cách nhìn khác nhau, để từ đó loại bỏ cái xấu
và xây đắp những cái tốt, đưa dân tộc đi lên.
NGƯỜI MỸ NHÌN NGƯỜI VIỆT
Viện Nghiên Cứu Xã Hội Học Hoa Kỳ (American
Institute for Social Research) sau khi nghiên cứu đã nói lên 10 đặc tính
căn bản của người Việt, xin tạm dịch như sau:
1.- Cần cù lao động nhưng dễ thỏa mãn. (First, they are hard working but easy to satisfy)
2.- Thông minh, sáng tạo khi phải đối phó với những
khó khăn ngắn hạn, nhưng thiếu những khả năng suy tư dài hạn và linh hoạt. (Second, they are smart and creative to cope with short-termed difficulties, but lack long-termed and active reasoning abilities)
3.- Khéo léo nhưng ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối
cùng các thành phẩm của mình. (Third, they are dexterous but hardly pay attention to the final perfection of their products)
4.- Vừa thực tế vừa có lý tưởng, nhưng lại không phát
huy được xu hướng nào thành những nguyên lý. (Fourth, they are both practical and idealistic, but don’t develop either of these tendencies into theories)
5.- Yêu thích kiến thức và hiểu biết nhanh, nhưng ít
khi học sự việc từ đầu đến cuối, nên kiến thức không có hệ thống hay căn bản.
Ngoài ra, người
Việt không học vì lợi ích của kiến thức [lúc
nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện hay vì những công việc tốt]. (Fifth, they love knowledge and have quick understanding, but hardly
learn from the beginning to the end of things, so their knowledge isn’t
systemic or fundamental. In addition, Vietnamese people don’t study
just for the sake of knowledge (when small, they study because of their
families; growing up, they study for the sake of prestige or good jobs))
6. Cởi mở và hiếu
khách nhưng sự hiếu khách của họ không kéo dài. (Sixth, they are open-hearted and hospital, but their hospitality doesn’t last)
7. Tiết kiệm, nhưng nhiều
khi hoang phí vì những mục tiêu vô nghĩa [vì sĩ diện hay muốn phô
trương]. (Seventh, they are thrifty, but many times squander money for meaningless reasons (to save face or to show off))
8.- Có tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau chủ yếu
trong những tình huống khó khăn và nghèo đói, còn trong điều kiện tốt hơn, đặc
tính này ít khi có. (Eighth, they have solidarity and help each other chiefly in difficult
situations and poverty; in better conditions, this characteristic rarely
exists)
9.- Yêu hòa bình và có thể chịu đựng mọi thứ, nhưng
thường không thẳng thắn vì những lý do lặt vặt, vì
thế hy sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ. (They love peace, and can endure things, but they are often not frank for
sundry reasons, so sacrifice important goals for the sake of small ones)
10.- Và sau cùng, thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để
tạo sức mạnh [một người có thể hoàn thành một
nhiệm vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc]. (And last, they like to gather, but lack connectivity to create strength
(one person can complete a task excellently; 2 people do it poorly, and 3
people make a mess of it))
Những phân tích trên đây cho chúng ta thấy người Mỹ đã
hiểu rất rõ người Việt. Tại sao người Việt
lại có những đặc tính như thế này?
NGƯỜI XƯA CŨNG ĐÃ NHẬN RA
Học giả Trần Trọng Kim (1883 – 1953) khi viết bộ
Việt Nam Sử Lược, ấn hành lần đầu
tiên năm 1919, cũng đã phân tích khá rõ ràng những đặc tính của người Việt và
những yếu tố tạo nên những đặc tính đó. Đa
số người Việt lớn tuổi, khi còn nhỏ đều đã được học bộ sử này. Trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ xin trích lại
dưới đây một số đoạn chính ông viết về đặc tính của người Việt.
Trong bài tựa, ông nói ngay:
“Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không
cần phải biết làm gì. Ấy cũng là
vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người
mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là
cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: «Việc nhà thì nhác, việc chú
bác thì siêng!»
“Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người
trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?”
“Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà
trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ
lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người
mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát
được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của
Tàu. Cái
ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng
chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên
lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.”
Ở Chương VI nói về “ Kết Quả của Thời Bắc Thuộc
”, ông có nhận định rõ hơn:
“Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm, mà nhất
là về đời nhà Chu thì cái học thuật lại càng rực
rỡ lắm. Những học phái lớn như là
Nho giáo và Lão giáo, đều khởi đầu từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường, những học phái ấy
thịnh lên, lại có Phật giáo ở Ấn độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền bá
đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ
đó trở về sau nước Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo tông chỉ của
những đạo ấy mà lập ra sự sùng tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau cả…”
“Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên
Tàu, thì đất Giao châu ta còn thuộc về nước Tàu, cho nên người mình cũng theo
những đạo ấy. Về sau nước mình đã
tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời
nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần trở đi.
“Phàm phong tục và chính trị là do sự học thuật và
tông giáo mà ra. Mà người mình đã theo học thuật
và Tông giáo của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu hết cả .
Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng thua kém
Tàu, mà tự người mình không thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được cái gì cho xuất
sắc, gọi là có cái tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại làm sao?
...
“Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy
cái hay cái dở của người, thì tiến hóa làm sao được? Mà sự học của mình thì ai cũng yên trí rằng cái gì đã học của Tàu là
hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy
Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở . Cách
mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho nên không chịu so sánh cái hơn cái
kém, không tìm cách phát minh những điều hay tốt ra, chỉ đinh ninh rằng người
ta hơn mình, mình chỉ bắt chước người ta là đủ.
“Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn của
người mình như thế, thì cái trình độ tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và
việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.”
Đọc cuốn “ Lều chõng”, một tiểu thuyết phóng sự
của nhà văn Ngô Tất Tố (1894 - 1954) , chúng ta có thể thấy rõ nền học vấn
của người Tàu mà người Việt rập khuôn theo đã kềm hảm con người như thế nào.
Ông vốn là một nhà Nho, đã từng tham dự các kỳ
thi hương dưới triều Nguyễn, nên đã phản ánh một cách trung thực những oái ăm của
các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy
khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng.
“TRƯỚC LÀ ĐẸP
MẶT SAU LÀ ẤM THÂN”
Nước Việt Nam bị Pháp đô
hộ gần 100 năm, đã cởi bỏ nền học vấn của Trung Hoa, tiếp thu nền học vấn mới của
phương Tây, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét căn bản của nền văn hóa Trung Hoa. Có nhiều hủ tục trong quan, hôn, tang, tế mà cuộc
Cách Mạng Văn Hoá của Trung Quốc đã phá sạch, nhưng nhiều người Việt vẫn cố giữ
lại như những thứ “quốc hồn quốc túy”.
Bài tục giao sau đây vẫn
còn là tiêu chuẩn và mục tiêu thăng tiến của gia đình và con người Việt Nam:
Con ơi! muốn nên thân người
Lắng tay nghe
lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ
việc trong nhà
Khi vào
canh cửi khi ra thêu thùa
Trai thì đọc
sách ngâm thơ
Dồi mài
kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối
được nghiệp nhà
Trước là đẹp
mặt sau là ấm thân
Bây giờ người con gái
không còn chỉ “giữ việc trong nhà”, và người con trai không còn chỉ “đọc sách
ngâm thơ” mà đã đi vào khắp mọi lãnh vực của cuộc sống, nhưng mục tiêu cuối
cùng vẫn chỉ là “Trước là đẹp mặt sau là ấm
thân”.
Trong nước, tiêu chuẩn của
cuộc sống là có nhà sang cửa rộng, có xe hơi, có con đi du học ngoại quốc... Tiêu chuẩn ở hải ngoại cũng thế thôi: Đi dâu cũng
nghe khoe nhà trên cả triệu bạc, xe loại sang trọng nhất, con đang học bác sĩ,
dược sĩ, kỹ sư... Gần như không nghe ai
khoe những công trình đang nghiên cứu hay thực hiện để đưa con người, cộng đồng
và đất nước đi lên. Tất cả chỉ tập trung vào
hai tiêu chuẩn là “đẹp mặt” và “ ấm thân”.
Với mục tiêu như thế,
chúng ta không ngạc nhiên khi nhìn ra phố Bolsa, thủ đô của VNCH nối dài, đa số
các cơ sở kinh doanh lớn đều không phải của người Việt. Tuy bên ngoài người Việt gốc Hoa đứng tên, nhưng đàng sau
là các bang hội của Tàu. Thương xá Phúc Lộc Thọ vốn
được coi là “ Quốc Hội VNCH ” ở Bolsa, nhưng phía trước là tượng các
danh nhân Trung Hoa và tên thương xá được viết vừa bằng chữ Tàu vừa bằng chữ Việt. Houston cũng thế thôi.
Nếu mỗi gia đình và mỗi
cá nhân chỉ lấy những mục tiêu như trên làm mục tiêu của cuộc sống và truyền từ
đời nọ sang đời kia, còn lâu cộng đồng và đất nước với ngóc đầu lên được.
NHÌN QUA NGƯỜI
HOA
Trong khi người Việt nhiễm
văn hoá Trung Quốc đã trở thành như đã nói trên, người Hoa khi ra hải ngoại lại
thích ứng rất nhanh nên vươn lên khá nhanh và khá cao. Những đặc tính của người Hoa ở hải ngoại được mô tả như
sau:
1.- Cần cù, việc gì cũng
làm
2.- Tiết kiệm, không sống
khoe khoang hay xa hoa.
3.- Khởi sự từ buôn bán
nhỏ.
4.- Đơn vị kinh tế gia
đình: Gia trưởng đóng vai trò quan trọng. Tài sản
có thể truyền từ đời nọ sang đới kia.
5.- Hình thành những xí
nghiệp không theo một hình thức chặt chẽ, không theo những quy luật nhất định,
tất cả đều dựa vào chữ TÍN .
6.- Không làm những công
việc có tính cách phức tạp hay quá to lớn, chỉ thích kinh doanh vào những lãnh
vực đơn giản. Khi cần làm ăn lớn thường
chia ra làm nhiều công ty con.
7.- Móc nối với chính quyền và cá nhân khác rất giỏi. Không tham gia chính quyền hay đảng
phái nào, nhưng thường nắm được các nhân vật có địa vị quan trọng có thể bao
che hay hổ trợ cho làm ăn.
(Tại Indonesia, người Hoa
chỉ chiếm từ 3% đến 4% dân số, nhưng làm chủ 70% tài sản ở đất nước này với khoảng
160 trong số 200 xí nghiệp lớn của Indonesia. Gia đình ông Liem Sioe Liong, làm
chủ xí nghiệp Salim với số vốn khoảng 9 tỷ mỹ kim, nhờ quen biết lớn với
Suharto).
8.- Không thích tranh tụng, kiện cáo. Thường tìm cách dàn xếp mỗi khi có đụng
chạm hay bị bắt vì vi phạm luật pháp.
9.- Phạm vi hoạt động gần
như không biên giới.
9.- Thích ứng rất nhanh với những biến đổi của thời cuộc
.
Trong bài “ Mạng lưới
kinh tế của người Hoa hải ngoại ”, ông Phạm Văn Tuấn đã nhận thấy như sau về
các hoạt động kinh doanh của người Hoa ở hải ngoại:
“ Khi bắt đầu bước vào ngành thương mại, các người Hoa hải
ngoại đã nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, các bang hay các cộng đồng của họ. Các hội tương trợ này được tổ chức
căn cứ vào gia đình, hay nguồn gốc địa phương, hay thổ ngữ, chẳng hạn như các
bang người Hẹ, Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến . Các hội hay các bang này đã hoạt động
như một thứ ngân hàng nhờ đó người Hoa có thể mượn tiền, trao đổi tin tức, tuyển
mộ nhân công, giới thiệu thương nghiệp, hay thương lượng các dịch vụ. Người
Hoa hải ngoại thường tôn trọng chữ Tín, họ làm ăn bằng ước hẹn miệng và sự tin
cẩn lẫn nhau, và họ không cần phải ký kết các văn bản, các giao kèo . Nếu một thương gia nào vi phạm lời hứa,
người đó sẽ không bị truy tố ra pháp luật mà bị ghi vào sổ đen của các nhóm,
các bang, đây là một tệ hại hơn, vì tất cả mạng lưới làm ăn của các cộng đồng
người Hoa đều sẽ biết rõ sự việc, và việc kinh doanh của người vi phạm kể như bị
chấm dứt.”
Số vốn của người Hoa hiện
đang sống ở ngoại quốc được ước lượng khoảng 4.000 tỷ USD.
QUAY LẠI NHÌN
MÌNH
Cuộc kiểm tra năm 2010
cho thấy ở Mỹ hiện nay người Hoa chiếm 1%, còn người Việt là 0,5%, tức
1.548.449. Người Việt ở Cali là
581.946 nguời.
Tại Little Saigon ở
Orange County, được coi thủ đô của VNCH nối dài, thành trì chống cộng của thế
giới tự do và tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á, có
đến 3 chính phủ và ba ban đại diện cộng đồng : Ba chính phủ là chính
phủ Nguyễn Hữu Chánh, chính phủ Đào Minh Quân và chính phủ Hồ Văn Sinh (thay
thế Nguyễn Bá Cẩn) . Ba ban đại diện cộng đồng
là cộng đồng Nguyễn Xuân Vinh, cộng đồng Nguyễn Tấn Lạc và cộng đồng Nguyễn
Xuân Nghĩa. Cộng Đồng này đang chửi cộng
đồng kia là tiếm danh.
Mặc dầu lực lượng hùng hậu
như thế, nhưng khi nhóm VietWeekly chưa đến 10 người nổi lên ủng hộ Hà Nội giữa
phố Little Saigon, chọc tức các đoàn thể chống cộng và cộng đồng mà chẳng ai
làm gì được. Trong khi đó, các “chiến
sĩ chống cộng” vẫn tiếp tục chụp mũ nhau không ngừng nghĩ trên các diễn đàn.
Rất nhiều “nhân tài” của
người Việt đang chuẩn bị ra tranh cử các chức vụ dân cử tại địa phương, thành
phố, tiểu bang và có thể liên bang, trong cuộc bầu cử sắp đến. Mục tiêu được mô tả là để bảo vệ và nói lên tiếng
nói của cộng đồng.
Trái lại, chúng tôi không
thấy có một tổ chức chính trị nào của người Tàu hoạt động ở đây và không nghe
nói họ sẽ đưa ai ra tranh cử.
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2004,
lúc đó liên danh George W. Bush đang
tranh với liên danh John Kerry. Tôi có nhờ
ông Tăng Kiến Hoa dẫn đến gặp một vài bang trưởng Tàu xem họ bầu cho ai.
Họ cười và nói: Quy
luật bầu cử là phù thịnh bất phù suy . Cứ thấy ai chắc thắng là đóng tiền cho người đó, không
cần biết đường lối họ như thế nào. Họ đã
nhận tiền là khi đắc cử họ sẽ giúp mình. Nếu
hai người ngang ngữa, đóng tiền cho cả hai. Tôi
hỏi người Tàu không có ai ra tranh cử dân bi ểu hay nghị sĩ gì sao. Họ cũng cười
và nói: Người mình có vào được quốc hội cũng chẳng làm được chuyện mình muốn.
Cứ thấy người nào có thế lực là đóng tiền cho
người đó.
Thì ra người Tàu bầu cử
bằng tiền chứ không phải bầu cử bằng phiếu như người Việt!
Tôi nhớ lại trong cuộc bầu cử năm 2000, vì hai liên
danh George W. Bush và Albert A. Gore ngang ngửa, nên người Tàu đóng tiền cho cả hai.
Tây An Tự và Thiền Sư Thanh Hải ở Los Angeles đã đóng tiền
cho liên danh Gore nhưng lập danh sách giả những người góp tiền, bị đổ bể nên
chúng ta mới biết được.
Chúng ta không mong người Việt có những nhà phát minh
làm thay đổi nhân loại như John V. Blankenbaker
(phát minh ra máy vi tính 1971) , Bill Gates, Steve Jobs..., chúng ta chỉ
mong người Việt biết quan tâm đến cộng đồng, đất nước và nhân loại nhiều hơn.
Nhưng điều này quá khó. Đúng như người Mỹ đã nhận xét:
Người Việt vì những lý do vớ vẫn, có thể hy
sinh những mục tiêu quan trọng vì lợi ích của những mục tiêu nhỏ (như kiếm chút danh chẳng hạn). [sacrifice important goals for the sake of small ones]
Người Việt thích tụ tập nhưng thiếu nối kết để tạo sức
mạnh. Một người có thể hoàn thành một nhiệm
vụ xuất sắc; 2 người làm thì kém, 3 người làm thì hỏng việc!
Chúng ta trông chờ vào thế hệ sắp đến, không bị vướng
mắc với quá khứ, học được nhiều cái hay của xứ người, sẽ đưa cộng đồng và đất
nước đi vào một hướng đi mới tốt đẹp hơn.
Ngày 24.1.2012
Lữ Giang
No comments:
Post a Comment